Chương 1: Không ai biết(1)
Mẹ bị lạc đã một tuần.
Cả gia đình cô tập trung ở nhà anh cả Hyong-chol. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, mọi người quyết định soạn tờ rơi để đi phát ở nơi có người nhìn thấy mẹ lần cuối cùng. Việc đầu tiên là thảo tờ rơi. Tờ rơi là giải pháp quen thuộc trong trường hợp này. Gia đình có người lạc vốn chẳng làm được gì nhiều, huống hồ người bị lạc không phải ai khác mà chính là mẹ. Tất cả những gì gia đình cô có thể làm là đăng tin tìm người thân bị lạc, chia nhau đi tìm kiếm khắp nơi, dò hỏi khách qua đường xem có ai nhìn thấy người nào giống mẹ không. Cậu em cô đang kinh doanh quần áo qua mạng đã đăng tin mẹ mất tích, miêu tả địa điểm, tải ảnh của mẹ lên mạng, đề nghị nếu ai thấy người nào giống như vậy thì xin hãy báo cho gia đình. Cô muốn tìm đến những nơi mẹ có thể đã đến, nhưng cô biết rằng mẹ không thể tự đi tới bất cứ nơi nào trong thành phố này. Anh Hyong-chol bảo cô soạn nội dung tờ rơi bởi cô sống bằng nghề viết lách. Cô đỏ dừ mặt như thể vừa bị phát hiện làm một việc xấu xa nào đó. Cô không chắc những gì mình viết liệu sẽ có ích trong việc tìm mẹ hay không.
Khi cô viết ngày sinh của mẹ là ngày 24 tháng 7 năm 1938, bố cô nói rằng mẹ sinh năm 1936. Mặc dù trên giấy tờ đều ghi năm 1938 nhưng thực tế mẹ sinh năm 1936. Lần đầu tiên cô được nghe tới điều này. Bố cô bảo ngày xưa tất cả mọi người đều làm như thế. Có rất nhiều đứa trẻ sinh ra chưa đầy trăm ngày đã chết, vì vậy người ta thường nuôi con được vài ba tuổi rồi mới làm giấy khai sinh. Cô sửa số 38 thành 36, nhưng anh cả bảo phải viết năm sinh của mẹ là 1938 theo đúng như trên giấy tờ. Cô thầm nghĩ không biết có cần phải chính xác tới thế không khi đây chỉ là tự soạn tờ rơi chứ không phải khai báo với cơ quan chức năng, nhưng cô vẫn sửa số 36 thành 38, trong lòng tự hỏi không biết đến cả ngày sinh của mẹ cũng có thật là ngày 24 tháng 7 không.
Mấy năm trước, mẹ bảo anh chị em cô không cần tổ chức sinh nhật riêng cho mẹ vì sinh nhật của bố trước sinh nhật mẹ một tháng. Trước đây, vào mỗi dịp sinh nhật hay các ngày lễ kỷ niệm khác, anh chị em cô đều về nhà bố mẹ ở thị trấn J. Cả nhà tập trung đầy đủ là 22 người. Mẹ rất thích cảnh cả gia đình quây quần, nói chuyện rôm rả. Cứ mỗi dịp cả nhà tập trung đông đủ, từ mấy ngày trước mẹ đã muối kim chi, ra chợ mua thịt bò, chuẩn bị kem đánh răng và bàn chải. Mẹ còn ép dầu mè, rang vàng hạt tía tô và hạt vừng rồi đem hạ thổ để làm quà cho các con mang về. Những lần chờ con cháu về, mẹ vui ra mặt, khi nói chuyện với hàng xóm hay người quen thì từ cử chỉ đến lời nói đều không giấu được vẻ tự hào. Mẹ còn chất đầy trong kho những chai thủy tinh lớn nhỏ, đựng đủ các loại nước hoa quả do chính tay mẹ làm, nào là nước mận, nước dâu tây...; mùa nào thức ấy. Mẹ có những hũ đựng đầy vèn cá đù muối và mắm cá trống hay sò muối để gửi cho các con trên thành phố. Biết hành tươi tốt cho sức khỏe, mẹ ép cả nước hành, và trước khi mùa đông đến mẹ còn làm nước bí ngô pha với cam thảo. Ngôi nhà của mẹ giống như kho xưởng, ở đó mẹ làm tương, làm đậu muối, làm gạo lứt, chế biến mọi thứ cho gia đình sử dụng quanh năm. Nhưng về sau, anh chị em cô về thăm bố mẹ thưa dần và bố mẹ lên Seoul nhiều hơn. Bữa tiệc gia đình ấm cúng trong ngày sinh nhật của bố mẹ cũng bắt đầu được thay bằng những bữa ăn thịnh soạn ở nhà hàng. Như thế tiện lợi hơn. Rồi thậm chí mẹ còn gợi ý nên tổ chức sinh nhật mẹ cùng với sinh nhật bố vì mẹ nghĩ mùa hè nóng nực mà anh chị em cô phải đi đi lại lại hai lần cho hai ngày sinh nhật thì thật mệt, chi bằng chọn lấy một ngày rồi tổ chức luôn cho tiện. Ban đầu cả nhà phản đối chuyện đó, dù mẹ cứ khăng khăng không thay đổi ý kiến, và nếu mẹ không chịu lên thành phố thì mấy người trong anh chị em cô sẽ về quê tổ chức sinh nhật cho mẹ. Về sau tất cả anh chị em trong nhà đều tặng quà sinh nhật cho mẹ vào ngày sinh nhật bố, còn ngày sinh nhật của mẹ cứ lặng lẽ trôi qua. Mẹ thích mua tất cho mọi thành viên trong gia đình nhưng anh chị em cô không ai lấy nên tất cứ chất đống trong tủ quần áo của mẹ.
Tên: Park So-nyo.
Ngày sinh: 24 tháng 7 năm 1938 (69 tuổi).
Hình dáng: Tóc muối tiêu ngắn, gò má cao, khi đi lạc mặc áo sơ mi xanh da trời, áo khoác trắng, váy xếp nếp màu be.
Địa điểm bị lạc: Ga tàu điện ngầm Seoul.
Không ai quyết được cô nên sử dụng tấm hình nào của mẹ. Mọi người đều nhất trí dùng tấm hình chụp gần đây nhất, nhưng không ai có tấm hình mới chụp nào có mẹ. Cô nhớ ra là lâu nay mẹ không thích chụp ảnh. Ngay cả khi chụp ảnh gia đình mẹ cũng lẩn đi mất, thế nên mẹ không bao giờ xuất hiện trong ảnh. Tấm ảnh gần đây nhất có mẹ là tấm chụp cả nhà vào dịp mừng thọ bố bảy mươi tuổi. Hôm ấy mẹ mặc hanbok màu xanh nhạt, mái tóc được thợ làm đầu cuốn lên cẩn thận, môi đánh son đỏ, trông thật sang trọng. Cậu em trai cô cho rằng hình dáng mẹ trong ảnh trông khác xa hình dáng mẹ trước khi bị lạc, cho dù có tách riêng ảnh mẹ ra phóng to lên thì mọi người cũng không nhận ra. Cậu kể rằng khi cậu tải ảnh mẹ lên mạng, mọi người vào bình luận rằng mẹ đẹp quá, trông chẳng giống người đi lạc tí nào. Cả nhà quyết định sẽ tìm tấm ảnh khác của mẹ. Anh cả bảo cô bổ sung thêm nội dung trong tờ rơi. Khi cô nhìn anh trai chằm chằm, anh bảo cô hãy nghĩ ra những câu cảm động hơn để lay động lòng người đọc. Lời lẽ lay động lòng người đọc ư? Khi cô viết “Làm ơn hãy giúp chúng tôi tìm mẹ”, anh cả cho rằng lời lẽ như vậy đơn giản quá. Khi cô viết “Omoni của chúng tôi bị lạc”, anh cả cho rằng từ Omoni trịnh trọng quá và bảo cô sửa thành Omma. Khi cô viết “Omma của chúng tôi bị lạc”, anh cả lại bảo nghe câu này quá trẻ con. Khi cô viết “Nếu nhìn thấy người nào như vậy, làm ơn báo cho chúng tôi”, anh cả quát ầm lên, “Cô là cái kiểu nhà văn gì vậy?” Cô không tài nào nghĩ ra được lấy một câu đủ sức thuyết phục để anh cả vừa ý.
Người anh thứ nói, “Mọi người sẽ chú ý nếu em viết thêm là chúng ta sẽ có hậu tạ.”
Khi cô viết “Chúng tôi sẽ hậu tạ xứng đáng”, đến lượt các chị dâu cô cho rằng không thể viết chung chung như vậy, mọi người chỉ thực sự quan tâm đến tờ rơi nếu chúng ta đưa ra một con số cụ thể.
“Vậy nên viết bao nhiêu?”
“Một triệu uôn được không?”
“Sợ ít quá.”
“Ba triệu uôn được không?”
“Vẫn có vẻ ít nhỉ?”
“Vậy thì năm triệu uôn nhé!”
Chắc chẳng có ai chê khoản tiền năm triệu uôn. Cô viết, “Chúng tôi sẽ hậu tạ năm triệu uôn,” rồi đặt dấu chấm câu. Người anh thứ hai bảo nên sửa lại là “Hậu tạ: năm triệu uôn.” Cậu em trai bảo cô cho dòng chữ năm triệu uôn thành cỡ chữ to hơn. Mọi người thống nhất nếu ai tìm thấy tấm hình của mẹ phù hợp hơn thì gửi email cho cô. Việc bổ sung nội dung và phô tô tờ rơi do cô đảm nhận, cậu em trai chịu trách nhiệm phân phát cho mọi người trong nhà. Cô gợi ý thuê người phát tờ rơi nhưng anh cả yêu cầu mọi người phải trực tiếp làm việc ấy, những ngày trong tuần thì tranh thủ thời gian rỗi, còn cuối tuần thì đi phát cả ngày.
Cô cáu kỉnh, “Làm như thế đến khi nào mới tìm thấy mẹ?”
Anh cả vặc lại, “Chúng ta sẽ làm việc này vì không thể ngồi tễnh mà chờ được, chúng ta đang làm tất cả những gì có thể.”
“Anh nói thế là thế nào, chúng ta đang làm tất cả những gì có thể sao?”
“Chúng ta đã đăng tin trên báo.”
“Tất cả những gì chúng ta có thể làm là đăng tin trên báo sao?”
“Thế cô muốn làm gì nữa, tất cả chúng ta phải bỏ việc để đi lục tung mọi ngõ ngách trong thành phố này lên chắc? Nếu làm như vậy mà tìm được mẹ thì tôi đã làm,” anh cả gần như nổi khùng.
Cô thôi không tranh luận với anh cả nữa. Xưa nay cô vốn quen để anh coi sóc mọi việc, nhưng cô cũng hiểu rằng làm vậy trong trường hợp này là quá đáng. Mọi người để bố ở lại nhà anh cả rồi ra về. Nếu không giải tán nhanh thì chắc chắn sẽ lại tiếp tục có tranh cãi. Anh chị em cô đã cãi vã nhau cả tuần trước rồi. Cả nhà tập trung để bàn cách tìm mẹ và rồi vô tình người này lại động chạm đến những lần người kia người nọ làm điều không phải với mẹ trước đây. Dần dà những chuyện dồn nén bấy lâu bùng phát, kết cuộc là anh em quát tháo lẫn nhau, người đốt thuốc mù mịt, người nổi khùng lên đóng sập cửa lại.
Ngay sau khi được tin mẹ bị lạc, cô bực tức hỏi mọi người trong gia đình sao không có ai ra ga tàu điện ngầm Seoul đón bố mẹ.
“Còn cô đã ở đâu?”
Tôi ư? Cô mím chặt môi. Tận bốn ngày sau khi mẹ bị lạc cô mới biết tin. Mọi người trong gia đình cô đổ lỗi cho nhau về chuyện mẹ bị lạc nhưng ai cũng cảm thấy day dứt trong lòng.
Rời khỏi nhà anh cả, cô bắt tàu điện ngầm về nhà nhưng rồi lại xuống ở ga Seoul, nơi mẹ biến mất. Trong nhà ga người đông như nêm, họ chen lấn va quệt vào cô khi cô tìm đường đi tới chỗ mẹ bị lạc. Chắc mẹ cô cũng bị lạc trong tình trạng hỗn loạn như thế này. Mọi người xô đẩy cô khi cô đứng tại nơi mẹ đã tuột mất bàn tay bố. Không ai nói một lời xin lỗi. Có lẽ mọi người đã ào ạt đi qua như thế trong khi mẹ cô đứng đấy, không biết phải làm gì.
Người ta có thể lật lại hồi ức được bao xa? Hồi ức về mẹ thì sao?
Từ khi nghe tin mẹ bị lạc đến tận bây giờ, cô không thể tập trung suy nghĩ được gì. Những ký ức cô đã quên lãng từ lâu bỗng nhiên trỗi dậy. Nỗi ân hận cứ bám theo từng ký ức. Cô nhớ lại nhiều năm về trước, mấy ngày trước khi cô rời thị trấn quê nhà lên thành phố, mẹ dẫn cô ra cửa hàng quần áo ngoài chợ. Cô muốn chọn một chiếc váy trơn nhưng mẹ lại chọn cho cô một chiếc váy xếp nếp có đai và đường diềm.
“Cái này thế nào?” mẹ cô hỏi.
“Không,” cô nói rồi gạt đi.
“Tại sao? Con cứ mặc thử đi.”
Mẹ lúc đó còn trẻ, mở to mắt ngạc nhiên không hiểu. Chiếc váy xếp nếp ấy tương phản hoàn toàn với chiếc khăn cũ kỹ lem nhem mẹ đội trên đầu như hai thế giới tách biệt không ăn nhập gì với nhau.
“Trông trẻ con quá.”
“Thật sao?” Mẹ cô nói nhưng vẫn cầm chiếc váy ngắm nghía mãi không nỡ rời. “Nếu là con thì mẹ đã thử cái váy này,” mẹ cô lẩm bẩm.
Thấy mẹ có vẻ hơi buồn khi cô cho rằng kiểu váy đó trẻ con, cô nói, “Cái này có phải kiểu mẹ hay mặc đâu.”
Mẹ nói, “Không, mẹ thích kiểu này, chỉ có điều mẹ thì không mặc được.”
Mình lẽ ra nên mặc thử cái váy đó, cô thầm nghĩ. Cô khuỵu chân ngồi xuống có lẽ đúng chỗ mẹ cô đã từng ngồi. Vài ngày sau khi nhất quyết đòi mua váy trơn, cô đã đến chính sân ga tàu điện ngầm Seoul này cùng mẹ. Mẹ nắm chặt tay cô, bước đi giữa biển người với phong thái có thể đe dọa cả những tòa nhà lừng lững đang từ trên cao nhìn thẳng xuống, rồi băng qua quảng trường và đợi anh cả dưới chân tháp đồng hồ. Sao một con người như vậy có thể bị lạc? Khi ánh đèn từ con tàu đang vào ga vừa rọi tới, mọi người đổ xô lại, liếc xéo qua chỗ cô ngồi cứ như thể họ đang bực bội vì cô cứ ngồi trên lối đi.
Lúc mẹ bị xô tuột khỏi tay bố, cô đang cùng đồng nghiệp tham dự triển lãm sách tổ chức tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Lúc mẹ cô bị lạc ở ga tàu điện ngầm Seoul, cô đang cầm trên tay bản dịch tiếng Trung cuốn sách của cô tại một quầy sách ở triển lãm. Cô tự hỏi tại sao bố không đi taxi mà lại đi tàu điện ngầm chứ? Chỉ cần bố không đi tàu điện ngầm thì chắc đã không xảy ra chuyện này.
Bố cô nói ông đã nghĩ tại sao phải đi taxi khi ga tàu hỏa cũng nối liền với ga tàu điện ngầm? Có những khoảnh khắc mà người ta thường suy ngẫm lại sau khi có việc gì đó xảy ra, nhất là sau khi chuyện không may xảy ra. Khoảnh khắc mà người đó nghĩ, Lẽ ra mình không nên làm vậy. Khi bố cô nói với cả nhà rằng bố mẹ có thể tự tìm đến nhà anh Hyong-chol, tại sao khác với những lần trước anh chị em cô lại để bố mẹ làm thế? Bình thường mỗi lần bố mẹ lên thành phố thăm các con, trong số anh em cô vẫn có người ra ga xe lửa hay ga tàu điện ngầm Seoul đón họ. Điều gì khiến bố cô, vốn luôn dùng xe của nhà hoặc đi taxi mỗi lần lên thành phố, quyết định đi tàu điện ngầm vào cái ngày định mệnh ấy? Khi tàu điện đến, bố mẹ vội vã chạy lại. Nhưng lúc bố lên tàu, nhìn lại phía sau thì đã không thấy mẹ đâu. Đó là một buổi chiều thứ Bảy đông đúc. Mẹ lạc bố giữa đám đông, đoàn tàu lăn bánh khi mẹ hoàn toàn mất phương hướng. Khi mẹ tay không đi lang thang trong ga tầu điện ngầm vì bố đã cầm túi của mẹ lên tàu, cô vừa rời khỏi triển lãm sách và đang trên đường đến quảng trường Thiên An Môn. Mặc dù đã đến Bắc Kinh ba lần nhưng cô chưa lần nào đến quảng trường Thiên An Môn, chỉ mới ngắm nhìn từ trong xe buýt hay taxi.
Cậu tình nguyện viên đề xuất đi thăm quảng trường Thiên An Môn trước bữa tối, cả đoàn nhất trí đó là một ý hay. Khi cô bắt taxi đến trước Tử Cấm Thành, người mẹ bơ vơ ở ga tàu điện ngầm Seoul của cô đang làm gì? Đoàn của cô đã vào thăm Tử Cấm Thành nhưng phải quay ra ngay. Tử Cấm Thành chỉ mở cửa một phần vì đang trong thời gian trùng tu, vả chăng cũng sắp đến lúc đóng cửa. Toàn bộ thành phố Bắc Kinh đang là một công trường lớn để chuẩn bị cho Đại hội Olympic vào năm tới. Cô chợt nhớ đến một cảnh trong phim Hoàng đế cuối cùng, khi ông vua già Phổ Nghi trở lại Tử Cấm Thành, nơi ông đã từng sống thời thơ ấu, và cho một vị khách du lịch nhỏ tuổi xem cái hộp ông giấu sau ngai vàng. Khi ông mở nắp hộp ra, con dế ông nhốt trong hộp từ ngày xưa vẫn còn sống. Khi cô đi sang quảng trường Thiên An Môn, mẹ cô đang đứng bơ vơ, bị chen lấn giữa dòng người đông đúc. Phải chăng mẹ cô đang mong chờ các con đến đón? Con đường nối Tử Cấm Thành với quảng trường Thiên An Môn cũng đang trong giai đoạn tu sửa. Cô có thể nhìn thấy quảng trường ngay trước mặt nhưng để đến được đó cô phải đi qua một con đường ngoằn ngoèo. Khi cô ngắm những cánh diều bay lơ lửng phía trên quảng trường Thiên An Môn, có thể mẹ cô đang ngồi trong đường hầm với nỗi tuyệt vọng và thầm gọi tên cô. Khi cô thấy cánh cửa sắt của Thiên An Môn mở ra, một tốp cảnh sát bước đều về phía quảng trường để hạ lá cờ đỏ có năm ngôi sao xuống, có thể mẹ cô đang đi lang thang trong mê lộ đường hầm ở ga tàu điện ngầm Seoul. Nhờ sự xác nhận của những người đã nhìn thấy mẹ cô trong nhà ga cô mới biết được điều này. Các nhân chứng nói họ nhìn thấy một bà già cứ lững thững bước, thỉnh thoảng lại ngồi bệt xuống đường hay đứng thẫn thờ trước cầu thang cuốn. Có người nói nhìn thấy bà già đó cứ ngồi mãi ở sân ga, rồi cuối cùng cũng lên một chuyến tàu để đi. Vào đêm mẹ bị lạc, cô cùng đoàn bắt taxi đến một con phố sáng trưng náo nhiệt ở Bắc Kinh, túm tụm cười đùa dưới ánh đèn đỏ, thưởng thức loại rượu nặng 56° của Trung Quốc, ăn cua chiên trong chảo dầu cay nóng hổi.
Bố cô xuống ở bến kế tiếp và quay lại ga tàu điện ngầm Seoul nhưng mẹ cô đã không còn ở đó.
“Dù không bắt được tàu nhưng sao có thể quên được đường cơ chứ? Bảng hướng dẫn ở đâu cũng có. Mẹ biết dùng điện thoại công cộng, chỉ cần đến bốt điện thoại là có thể gọi được mà.” Chị dâu cô một mực cho rằng chắc chắn đã có chuyện gì đó xảy ra với mẹ, rằng thật khó hiểu khi mẹ không thể tìm thấy nhà anh cả chỉ vì không lên đúng chuyến tàu điện ngầm như bố. Có điều gì đã xảy ra với mẹ ư? Đó là suy nghĩ của những người muốn nghĩ mẹ là một bà già quê mùa.
Khi cô nói, “Có thể mẹ đã bị lạc đường chứ chị,” thì chị dâu cô tròn mắt ngạc nhiên. “Chị biết dạo này mẹ thế nào rồi đấy,” cô giải thích nhưng chị dâu làm ra vẻ không hiểu cô đang nói gì. Nhưng thực ra cả gia đình đều biết tình trạng của mẹ dạo này. Có thể cô sẽ không tìm được mẹ.
Cô nhận ra mẹ không biết đọc từ khi nào nhỉ?
Lá thư đầu tiên cô viết là khi chuyển lời nhắn của mẹ tới anh Hyong-chol ngay sau khi anh chuyển lên thành phố. Sau khi tốt nghiệp trung học ở thị trấn, nơi anh em cô đã sinh ra và lớn lên, anh Hyong-chol đã tự ôn thi công chức ở nhà trong một năm, rồi thi đỗ và chuyển lên thành phổ để làm việc. Đây là lần đầu tiên mẹ cô phải xa một đứa con rứt ruột đẻ ra. Khi ấy nhà cô không có điện thoại, cách liên lạc duy nhất là qua thư. Anh Hyong-chol thường gửi cho mẹ những lá thư viết chữ rất to. Mẹ cô luôn linh cảm được ngày thư của anh Hyong-chol đến cứ như thể có phép lạ. Tầm mười một giờ trưa, bác đưa thư đến làng cô với cái túi to tướng treo trước ghi đông xe đạp. Vào ngày có thư của anh cả, từ ngoài đồng hay ngoài mương mẹ cô sẽ về nhà giặt giũ quần áo để đợi được trực tiếp nhận lá thư từ tay bác đưa thư rồi mong ngóng cô đi học về. Khi thấy cô về, mẹ vội vàng dẫn cô ra hiên sau rồi đưa lá thư của anh Hyong-chol ra, giục cô đọc to cho mẹ nghe.
Lá thư của người anh xa nhà được mở đầu bằng dòng chữ “Mẹ kính yêu”. Cách viết thư giống hệt như học trong sách vở, anh hỏi thăm sức khỏe mọi người ở nhà và thông báo tình hình công việc của anh trên thành phố vẫn tốt. Trong thư anh Hyong-chol viết rằng mỗi tuần một lần anh mang quần áo bẩn đến nhà thím để nhờ thím giặt hộ. Thực ra mẹ đã nhờ thím làm việc đó cho anh. Anh dặn mẹ không phải lo cho anh vì chuyện ăn uống hằng ngày vẫn đảm bảo, anh cũng có chỗ nghỉ ngơi mỗi khi trực ở văn phòng.
Anh Hyong-chol còn cho biết khi lên thành phố anh muốn làm rất nhiều việc và cảm thấy như thể mình làm được mọi việc vậy. Thậm chí anh còn bộc lộ khát vọng rằng anh sẽ thành công và mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mẹ. Trong thư, người anh hai mươi tuổi còn khéo léo dặn thêm, Thế nên mẹ ơi, không phải lo lắng cho con đâu mà hãy chú ý giữ gìn sức khỏe. Vừa đọc thư của anh cho mẹ nghe, cô vừa ngắm mẹ lúc ấy đang nhìn chằm chằm vào mấy cây khoai nước ở sân sau và mấy cái chum sành đựng đầy tương. Tai mẹ dỏng lên như tai thỏ, chú ý lắng nghe cô đọc không để sót từ nào. Sau khi cô đọc hết lá thư, mẹ bảo cô viết đúng như những lời mẹ nói. Lời đầu tiên của mẹ là, Hyong-chol yêu thương. Cô liền viết, Hyong-chol yêu thương. Mẹ không bảo cô đánh dấu chấm câu nhưng cô vẫn đặt dấu chấm câu sau tên anh. Mẹ cô nói, Hyong-chol!, cô sẽ viết, Hyong-chol! Lúc mẹ ngừng lại sau khi kêu tên anh cả cứ như mẹ quên mất phải nói điều gì, cô lấy tay gạt mái tóc đang xõa xuống ra sau tai rồi lại cầm bút trên tay, chăm chú nhìn vào lá thư, dỏng tai lên chờ mẹ nói tiếp để viết. Khi mẹ nói, trời trở lạnh rồi đấy, cô cũng viết nguyên văn, trời trở lạnh rồi đấy. Tiếp ngay sau câu Hyong-chol yêu thương, mẹ luôn nói về thời tiết. Ở nhà hoa nở rộ cho thấy mùa xuân đang đến. Hè sang nên cánh đồng đang bắt đầu khô nẻ. Vào mùa thu hoạch rồi, đậu tràn ngập bờ ruộng. Mẹ luôn nói tiếng địa phương, trừ khi đọc để cô viết thư cho anh Hyong-chol. Con đừng lo gì việc ở nhà, hãy chú ý giữ gìn sức khỏe. Đấy là điều duy nhất mẹ mong muốn ở con. Những lá thư của mẹ luôn ngập tràn cảm động: Mẹ xin lỗi vì không giúp được gì cho con. Khi cô nắn nót viết theo những lời của mẹ, nước mắt đã rơi lã chã trên bàn tay mẹ. Câu nói cuối cùng của mẹ luôn luôn là: Con hãy ăn uống đầy đủ con nhé! Mẹ.
Là con thứ ba trong gia đình, cô đã chứng kiến nỗi lo lắng, đau khổ, buồn rầu của mẹ khi từng người anh của cô thoát ly. Sau khi anh cả xa nhà, sáng sớm nào mẹ cũng ra sân sau lau chùi mấy chum tương. Bởi vì giếng nước ở sân trước nên thật vất vả mới mang được nước ra sân sau, nhưng mẹ vẫn lau chùi cẩn thận từng cái chum một. Mẹ còn lau sạch cả trong lẫn ngoài những chiếc nắp chum cho đến khi chúng sáng bóng lên. Vừa làm mẹ vừa khe khẽ hát theo lời một bài hát nào đó, Nếu giữa đôi ta không có biển ngăn cách, sẽ không có lời ly biệt đớn đau... Mẹ nhúng giẻ lau vào trong chậu nước lạnh buốt rồi vớt ra, vắt khô rồi lại lau những chiếc chum và tiếp tục hát, Tôi hy vọng một ngày nào đó người sẽ không xa rời tôi. Nếu lúc ấy cô gọi, mẹ sẽ quay lại với đôi mắt ngấn lệ.
Cách mẹ yêu thương quan tâm chăm sóc anh cả được thể hiện qua việc mẹ nấu mì cho mỗi mình anh những khi anh đi học thêm buổi tối về. Sau này, nếu có lúc cô nhắc đến chuyện ấy với bạn trai, anh lại nói rằng đó chỉ là món mì thôi, có gì ghê gớm đâu? Chỉ là món mì thôi sao? Vào thời điểm đó chẳng phải mì là món ngon nhất sao? Thậm chí khi ăn còn phải giấu giếm không cho ai. Dù cô có giải thích về sự tuyệt vời của món mì thế nào đi nữa thì anh ấy, một người thành phố, vẫn nghĩ là nó quá thường tình.
Hồi đó, món mì vừa mới xuất hiện có hương vị ngon hơn mọi món mẹ làm. Mẹ mua mì và giấu trong chiếc chum rỗng ngoài sân, mẹ chỉ muốn nấu cho anh cả ăn vào ban đêm. Dù đã khuya muộn nhưng mấy anh em cô đều bị đánh thức bởi mùi mì thơm ngào ngạt. Khi mẹ nghiêm khắc yêu cầu anh em cô vào đi ngủ, cả mấy anh em cô cứ đứng thèm thuồng nhìn anh cả ăn. Cảm thấy có lỗi, anh Hyong-chol chỉ ăn một miếng, nhưng mẹ bảo anh cứ ăn hết bát mì, rồi mẹ đổ đầy nước vào nồi, nấu thêm một gói mì nữa để chia cho anh em cô. Lúc đấy sao mà mấy anh em cô thấy sung sướng thế, đứa nào đứa nấy háo hức đón lấy cái bát nước nhiều hơn mì.
Khi lau đến chiếc chum giấu mì ngày xưa, mẹ sẽ gọi to, Hyong-chol! rồi ngồi bệt xuống đất, hai chân xoãi ra, và cô sẽ nhẹ nhàng đi đến, lấy chiếc giẻ khỏi bàn tay mẹ, kéo tay mẹ lên quàng quanh vai cô. Mẹ sẽ bật khóc thổn thức, không kìm nén được trước nỗi nhớ thương tuôn trào về đứa con đầu lòng.
Mỗi khi các anh xa nhà, mẹ cô như chìm vào nỗi buồn vô tận. Khi ấy, tất cả những gì cô có thể làm là đọc thư các anh gửi về cho mẹ nghe, sau đó nghe mẹ đọc để viết thư cho anh rồi bỏ lá thư vào thùng thư trên đường tới trường. Thậm chí lúc đó cô không biết một sự thật hiển nhiên là mẹ chưa từng một lần bước chân vào thế giới của những bức thư. Tại sao cô lại không nghĩ ra rằng mẹ không biết chữ, ngay cả lúc mẹ cậy dựa vào cô như một đứa trẻ, ngay cả lúc cô đọc thư rồi viết thư giúp mẹ? Cô thực hiện những đề nghị của mẹ chỉ như làm những việc vặt khác, cũng giống như việc ra vườn hái mấy cây cẩm quỳ hay chạy ra cửa hàng mua ít dầu hỏa. Nhưng sau khi cô xa nhà, mẹ không nhờ bất cứ ai làm việc đó. Chính vì vậy cô không nhận được lá thư nào từ mẹ. Liệu có phải do cô không bao giờ viết thư cho mẹ không? Có lẽ là do chiếc điện thoại. Vào thời điểm cô rời khỏi thị trấn, người ta lắp một chiếc điện thoại công cộng ở nhà ông trưởng thôn. Đây là cái điện thoại đầu tiên ở làng cô. Vào mỗi buổi sáng, người trong làng lắng nghe ông trưởng thôn kiểm tra cái loa rồi thông báo nhà này hay nhà khác đến nghe điện thoại từ Seoul gọi về. Các anh cô thôi không viết thư nữa mà thường gọi điện về cho mẹ qua chiếc điện thoại công cộng của làng. Từ khi làng có điện thoại, mọi người cho dù đang ở ngoài đường hay trên đồng cũng đều chú ý lắng xem nghe tiếng loa gọi tên nhà nào.
Mối quan hệ giữa mẹ và con gái sẽ thuộc một trong hai dạng, hoặc là biết rất rõ về nhau hoặc là giống như người xa lạ.
Cho đến mùa thu năm trước cô vẫn nghĩ rằng cô rất hiểu mẹ. Từ việc mẹ thích cái gì, khi mẹ giận phải làm gì để mẹ nguôi, cho đến việc mẹ muốn nghe những lời như thế nào... Nếu có ai hỏi mẹ đang làm gì, cô có thể trả lời ngay lập tức: mẹ đang phơi cây dương xỉ; hôm nay Chủ nhật nên mẹ đến nhà thờ… Nhưng cũng chính vào mùa thu trước, những suy nghĩ ấy của cô đã vỡ vụn. Một lần về thăm mẹ mà không báo trước, cô cảm nhận được không khí xa lạ đang tồn tại giữa hai mẹ con giống như cô đã trở thành một người khách lạ chứ không còn là con gái của mẹ. Hôm đó, mẹ nhặt chiếc khăn rơi trên sàn nhà rồi treo lên, nếu thức ăn vãi xuống bàn mẹ cũng vội vàng nhặt đi. Những khi cô về nhà mà không báo trước, mẹ thường tỏ ra lúng túng, ngượng ngùng vì sân thềm bừa bãi, chăn màn lôi thôi. Mẹ mở tủ lạnh ra xem còn thứ gì không, và cho dù cô cố ngăn, mẹ vẫn nhất quyết ra chợ mua thứ gì đó. Trong mối quan hệ gia đình, người ta có thể đi làm những việc khác sau bữa ăn mà không cần dọn bàn ngay. Thấy mẹ cứ cố giấu giếm sự lộn xộn trong cuộc sống hằng ngày, cô cảm thấy mình thực sự đã trở thành người xa lạ với mẹ.
Chương 1: Không ai biết(2)
Có lẽ cô đã trở thành vị khách từ rất lâu trước đó, khi cô lên thành phố. Sau khi cô thoát ly, mẹ chẳng bao giờ cáu gắt cô nữa. Trước đây, chỉ cần cô làm gì hơi sai trái là mẹ đã quát ầm lên. Hồi còn nhỏ, mẹ luôn gọi cô là “Con, con gái.” Mẹ hay nói câu ấy mỗi khi phân biệt cô với các anh em trai, nhưng mẹ cũng gọi cô là “Con, con gái” khi mẹ nhắc nhở cô giữ ý tứ trong sinh hoạt, chưa hài lòng với cách cô ăn hoa quả, đi đứng, ăn mặc, nói năng. Cũng có những lúc mẹ nhìn cô đầy vẻ âu lo. Mẹ nhìn cô với vẻ mặt ngại ngần khi muốn nhờ cô căng các góc chăn ga để hồ cho phẳng, hay khi nhờ cô cho củi vào lò để chuẩn bị nấu cơm.
Vào một ngày mùa đông lạnh giá, khi đang ngồi bên giếng lột da con cá đuối để nấu cúng tổ tiên, mẹ buông dao mà nói, “Con phải chịu khó học hành mới có thể bước vào một thế giới tốt hơn”. Lúc đó cô có thực sự hiểu được những lời dặn dò của mẹ không? Hình như cô chỉ thường gọi “Omma” những lúc mẹ mắng cô. Tiếng gọi “Omma” ấy không chỉ gợi cảm giác thân thương mà còn ẩn chứa trong đó lời cầu xin, Mẹ hãy quan tâm chăm sóc con, xin đừng trách mắng và cốc đầu con, hãy ở bên con cho dù con đúng hay sai. Cô không bỏ cách gọi mẹ là Omma thay vì Omoni. Ngay bây giờ khi mẹ đang bị lạc cũng thế. Cô luôn tâm niệm rằng mỗi khi gọi mẹ là Omma, mẹ sẽ luôn được khỏe mạnh. Mẹ sẽ bình an vô sự, sẽ không có bất cứ điều gì xảy ra với mẹ. Cuộc sống ở trên thành phố đầy áp lực, mỗi khi tuyệt vọng người đầu tiên cô nghĩ đến là mẹ.
Mùa thu năm ngoái, cô về nhà mà không báo trước. Chuyện đó hoàn toàn không phải do cô muốn mẹ đỡ vất vả hơn vì mỗi lần cô về nhà mẹ đều tất bật luôn tay. Sáng hôm đó cô đáp máy bay đến thành phố P. Thành phố P rất xa nhà bố mẹ. Cô dậy sớm, gội đầu và ra sân bay để kịp chuyến bay sáng mà vẫn không nghĩ mình sẽ đi thăm mẹ ở thị trấn J. Đường từ thành phố P đến thị trấn J xa và bất tiện hơn đi từ Seoul. Chuyến đi này không nằm trong dự định của cô.
Khi cô về đến nhà, cổng đang mở, cửa nhà cũng mở. Vì trưa hôm sau cô có hẹn ăn trưa với bạn trai nên tối hôm đó cô phải đi tàu lên Seoul. Dù sinh ra ở nơi này, sao giờ đây cô thấy ngôi làng bỗng trở nên xa lạ quá. Thứ duy nhất còn lại từ thời cô còn bé là ba cây tầm ma bên cạnh bờ mương. Ba cây tầm ma giờ đã lớn. Cô đi dọc theo bờ mương dưới tán những cây tầm ma để về nhà chứ không đi theo đường lớn. Nếu đi theo lối này cô sẽ nhìn thấy cổng sau ngôi nhà thơ ấu của mình. Ngày xưa, ngay ngoài cổng sau nhà cô có một cái giếng làng. Trước khi bước vào cổng, cô dừng lại đúng chỗ cái giếng ngày nào. Cô còn nhớ do các nhà trong làng đều làm hệ thống nước riêng nên cái giếng tự nhiên bị lấp đi. Cô giậm giậm chân trên nền bê tông rắn chắc nơi giếng nước dồi dào từng ở đó. Trong lòng cô ngập tràn thương nhớ. Cái giếng sẽ ra sao trong bóng tối dưới con đường này, cái giếng từng cung cấp nước cho mọi người trong con ngõ nhỏ và đến tận giờ vẫn còn kêu róc rách? Cô không ở đó khi cái giếng bị lấp. Một lần cô về thăm nhà, cái giếng đã biến mất, thay vào đó là một con đường bê tông chạy ngang qua. Có lẽ do cô không tận mắt chứng kiến cái giếng bị lấp nên cô vẫn mãi nghĩ rằng nó vẫn ở đó, róc rách chảy dưới con đường bê tông.
Cô đứng phía trên cái giếng một lúc rồi bước vào trong cổng cất tiếng gọi, Omma! Nhưng không có tiếng trả lời. Ánh nắng mùa thu ngập tràn trên mảnh sân nhìn ra hướng Tây. Cô bước vào trong nhà tìm khắp phòng khách, phòng ngủ nhưng không thấy mẹ đâu. Đồ đạc trong nhà lộn xộn. Chai nước mở nắp để trên bàn ăn, chiếc cốc nằm chỏng chơ trong chậu rửa bát. Cái giỏ đựng giẻ lau úp sấp trên tấm chiếu trải sàn phòng khách, chiếc áo sơ mi dài tay đã dơ vứt bừa trên ghế như thể bố vừa cởi ra liền. Ánh nắng buổi chiều muộn vẫn lan tỏa trong không trung. Mẹ ơi! Dù biết không có ai ở nhà nhưng cô vẫn gọi thêm lần nữa. Mẹ ơi! Cô chạy ra cửa trước, ngó sang mảnh sân bên hiên thì thấy mẹ đang nằm trên cái phản gỗ trong gian nhà kho để cửa mở. Mẹ đang nằm im. Mẹ ơi!, cô gọi, nhưng vẫn không có câu trả lời. Cô xỏ giày rồi bước ra kho. Từ trong kho cô cũng có thể nhìn ra ngoài sân. Trước đây, mẹ cô hay ủ mạch nha trong gian nhà kho này. Cái kho rất hữu dụng, đặc biệt từ khi bố mẹ mở rộng nó ra đến tận khu bên cạnh.
Mẹ đóng những cái giá treo lên tường và chất đồ đạc cũ không sử dụng nữa lên đó, phía dưới là những lọ thủy tinh đựng dưa muối. Chính mẹ đã chuyển cái phản vào đây. Sau khi ngôi nhà cũ đổ nát và ngôi nhà mới theo kiến trúc phương Tây được xây lên, mẹ thường ngồi trên tấm phản này để làm những công việc bếp núc mà mẹ thấy khó làm trong gian bếp hiện đại ở nhà trên. Mẹ giã ớt đỏ thật nhuyễn trong cối để đem muối kim chi, tách quả đậu lấy hạt rồi xát vỏ hạt, làm tương ớt, muối kim chi cải bắp, hoặc sấy khô bánh đậu nành.
Chuồng nuôi chó bên cạnh nhà kho trống không. Đoạn dây xích nằm chỏng chơ trên mặt đất. Lúc đó cô mới nhận ra rằng khi bước vào nhà cô không nghe thấy tiếng chó sủa. Vừa đảo mắt tìm con chó, cô vừa tiến lại gần chỗ mẹ nằm nhưng không thấy mẹ động đậy. Chắc mẹ vừa thái bí ngô để phơi khô. Cái thớt, con dao và đống bí ngô xanh đã đẩy sang bên, những lát bí ngô xanh thái mỏng được bỏ vào trong cái rổ tre cũ nát. Thoạt đầu cô băn khoăn có phải mẹ đang ngủ không? Nhưng mẹ đâu phải là người hay ngủ trưa, cô nghĩ và ghé sát vào mặt mẹ. Mẹ đang đặt một tay lên trán, dường như đang cố hết sức để chống chọi với cơn đau. Đôi môi của mẹ hé mở, các nếp nhăn giữa cặp lông mày cau lại trông như những sợi dây thép.
“Mẹ ơi!”
Mặc cho cô gọi, mẹ cô vẫn không mở mắt.
“Mẹ ơi! Mẹ ơi!”
Cô quỳ gối trước mẹ, lay mãi mẹ cô mới từ từ mở mắt. Hai mắt mẹ đỏ ngầu, vầng trán ướt đẫm mồ hôi. Hình như mẹ không nhận ra cô. Vì quá đau, khuôn mặt mẹ nhăn nhó khổ sở. Phải là một cái gì đó vô hình hết sức tồi tệ mới có thể gây ra bộ dạng kinh khủng đến vậy. Mẹ cô nhắm mắt lại.
“Mẹ ơi!”
Cô trườn hẳn lên phản từ lúc nào không hay, nâng khuôn mặt méo xệch của mẹ lên đặt vào đầu gối mình. Cô đỡ một tay dưới nách mẹ để đầu mẹ không trượt khỏi đầu gối và cứ giữ mẹ ở tư thế như vậy. Sao mẹ lại bị bỏ mặc trong tình trạng này? Ý nghĩ oán giận chợt lóe lên trong đầu cô, cứ như thể có ai đó đã quẳng mẹ cô vào nhà kho trong nông nỗi này. Mặc dù cô mới chính là người rời xa mẹ. Khi vô cùng hoảng hốt thì người ta chẳng thể nghĩ ra phải làm gì. Mình có nên gọi xe cứu thương? Mình có nên đưa mẹ vào nhà? Bố đâu rồi? Những ý nghĩ ấy ào ạt qua đầu cô nhưng cô chẳng làm được gì hơn là nhìn xuống gương mặt mẹ. Cô chưa bao giờ thấy mặt mẹ vẹo vọ đi như thế, vô cùng khổ sở trong cơn đau dữ dội. Bàn tay vừa nãy mẹ đặt trên trán giờ đã bơ phờ rũ xuống sàn nhà. Mạch đập yếu ớt, hơi thở khó nhọc. Mẹ không còn gồng mình cố chống chọi cơn đau nữa, chân tay xoãi ra, mềm nhũn bất động. “Mẹ ơi!” cô gọi to và ôm chặt lấy cơ thể mẹ, tim cô đập thình thịch. Thốt nhiên cô nghĩ e rằng mẹ sẽ chết mất. Một lúc sau mẹ cô từ từ mở mắt ra, hướng ánh mắt về phía cô. Lẽ ra mẹ phải ngạc nhiên khi thấy cô, nhưng đôi mắt mẹ trống không. Mẹ quá yếu nên phản ứng vô cùng chậm chạp. Một lúc lâu sau mẹ gọi tên cô nhưng khuôn mặt vẫn hoàn toàn vô cảm. Mẹ cứ lẩm nhẩm điều gì đó một cách mơ hồ. Cô phải ghé sát tai vào để nghe.
“Khi bác con mất, mẹ thậm chí đã không khóc được.” Nhìn khuôn mặt trắng bệch kinh hoàng của mẹ, cô không thể nói được dù chỉ một lời an ủi.
Đám tang của bác gái cô là vào mùa xuân. Cô đã không đến dự đám tang, thậm chí trong suốt một năm bác ốm đau cô cũng không đến thăm lấy một lần. Cô đã làm gì trong khoảng thời gian đó nhỉ? Hồi cô còn bé, bác như người mẹ thứ hai của cô. Cứ tới kỳ nghỉ hè cô lại đến ở nhà bác, chỉ cách nhà cô một quả núi. Trong mấy anh em cô, bác quý cô nhất, có lẽ là do cô giống mẹ. Bác thường nói rằng cô và mẹ cô giống nhau như đúc. Cứ như thể đang dựng lại không gian tuổi thơ giữa hai chị em, bác cùng cô cho thỏ ăn, bác tết tóc cho cô thành ba bím. Bác thường độn một muỗng gạo trên nồi mì và để dành riêng phần cơm trắng cho cô. Buổi tối, bác cho cô nằm vào lòng và kể chuyện cổ tích cho cô nghe. Cô vẫn nhớ khi mình gối đầu lên tay bác ngủ ngon lành. Dù bác không còn nữa nhưng cô vẫn nhớ mùi hương của bác từ thuở ấy. Khi về già bác trông nom mấy đứa cháu, bố mẹ nó bận mở lò bánh mì. Bác ngã cầu thang khi đang cõng cháu nên phải vào bệnh viện, đến lúc ấy bác mới biết bệnh ung thư đã di căn khắp cơ thể bác, không làm gì được nữa. Khi báo cho cô tin này, mẹ cô đã nói, “Tội nghiệp bác con quá!”
“Tại sao đến tận bây giờ họ mới phát hiện ra căn bệnh chứ?”
“Vì bác con chưa một lần được kiểm tra sức khỏe.”
Mẹ cô thường nấu cháo đặc mang đến bón cho bác ăn. Cô im lặng lắng nghe mỗi khi mẹ gọi điện bảo, “Hôm qua mẹ sang thăm bác, mẹ nấu cháo mè mang đến, bác ăn ngon miệng lắm.” Cô là người đầu tiên mẹ gọi điện báo tin bác mất.
“Bác con mất rồi.”
Cô không nói gì.
“Con bận thế nên không cần đến đám tang đâu.”
Dù mẹ không nói vậy thì cô cũng không thể đến dự đám tang của bác vì đã đến hạn chót phải nộp bản thảo. Sau khi đi dự đám tang của bác về, anh Hyong-chol nói với cô anh đã lo là mẹ sẽ đau khổ tuyệt vọng, nhưng mẹ không hề khóc và cũng không muốn đưa bác ra nghĩa trang. “Thật vậy sao?” cô hỏi lại. Anh cả nói rằng anh cũng thấy đây là chuyện lạ tuy nhiên anh tôn trọng ý muốn của mẹ.
Nhưng ở trong nhà kho ngày hôm ấy, với khuôn mặt xác xơ đau đớn, mẹ đã nói với cô rằng mẹ thậm chí không thể khóc khi bác mất.
“Sao lại phải thế? Nếu mẹ muốn thì mẹ cứ khóc.” Mặc dù không biểu lộ ra nhưng cô thấy trong lòng đã nhẹ đi đôi chút khi mẹ đang trở lại là người mẹ xưa nay của cô.
Mẹ cô khẽ chớp chớp mắt. “Mẹ không thể khóc thêm được nữa.”
Cô không nói gì.
“Đầu mẹ đau như muốn nổ tung.”
Ánh nắng cuối ngày sưởi ấm không gian, cô nhìn chằm chằm vào khuôn mặt mẹ trong lòng mình cứ như lần đầu tiên được nhìn thấy nó. Mẹ bị đau đầu? Nhức nhối đến mức mẹ thậm chí không thể khóc được? Đôi mắt đen tròn sáng rực của mẹ như mắt con bò mẹ lúc chuẩn bị sinh ẩn dưới những nếp nhăn sâu hoắm. Cặp môi vêu vao, tái nhợt của mẹ khô khốc và nứt nẻ. Cô đã không biết rằng mẹ phải chịu những cơn đau đầu dữ dội đến mức không thể khóc được trong đám tang bác. Cô nâng cánh tay xoãi xuống phản của mẹ đặt lên bụng mẹ. Cô nhìn sâu vào những đốm đen trên mu bàn tay tảo tần cả đời lam lũ của mẹ. Cô không thể nói là mình hiểu rõ mẹ được nữa.
Thời bác trai cô còn sống, cứ thứ Tư hằng tuần bác lại đến thăm mẹ cô. Hồi đó bác mới trở về thị trấn J sau nhiều năm lang thang nay đây mai đó khắp đất nước. Bác đến chẳng phải có việc gì đặc biệt, chỉ là đạp xe tới xem mẹ cô ra sao rồi lại quay về. Có khi bác đến mà không vào trong nhà, chỉ đứng ngoài cổng gọi to, “Em vẫn khỏe chứ?” Rồi mẹ cô chưa kịp ra ngoài sân, bác đã nói, “Anh phải đi đây!” và quay xe đi mất. Trước đây cô cứ nghĩ quan hệ giữa mẹ và bác không gần gũi đến thế. Một lúc nào đó trước khi cô sinh, bác đã vay bố cô một khoản tiền lớn mà không trả. Thi thoảng mẹ cô vẫn lại nhắc lại chuyện ấy và tỏ ra rất giận bác. Mẹ nói với cô rằng vì bác mà mẹ luôn cảm thấy mắc nợ với bố cô và bà chị chồng. Mặc dù món nợ là của bác nhưng dường như chuyện bác không trả nợ đã khiến mẹ cô rất khó xử. Trong khoảng bốn năm năm không có tin gì của bác, mẹ cô rất sốt ruột và luôn nhắc nhở, “Không biết giờ bác con ra sao rồi.” Cô không chắc mẹ đang lo cho bác hay đang giận bác.
Một hôm - chuyện này xảy ra trước khi bố mẹ xây ngôi nhà hiện nay - mẹ nghe thấy ai đó đẩy cổng bước vào rồi cất tiếng gọi, “Em ơi, có ở nhà không?” Mẹ cô lúc đó đang ngồi trong nhà ăn quýt với cô, vội vàng đẩy cửa chạy ào ra. Mọi việc diễn ra quá nhanh. Ai mà khiến mẹ cô quýnh quáng lên thế nhỉ? Tò mò muốn biết sự tình nên cô cũng chạy theo ra ngoài. Mẹ cô dừng lại trên thềm, nhìn ra cổng và reo lên, “Anh trai!” rồi cứ để cả chân trần chạy ào ra phía người đang đứng bên cổng. Người đó là bác trai cô. Mẹ cô chạy nhanh như gió đến bên bác, đấm thùm thụp vào ngực bác rồi nức nở, “Anh ơi! Anh ơi!” Đứng trong hiên nhà, cô đã được tận mắt chứng kiến bộ dạng của mẹ lúc ấy. Đó là lần đầu tiên cô nghe thấy mẹ gọi ai đó là “anh trai”. Mỗi khi nhắc đến bác trai cô, mẹ cô thường nói là “bác con”. Chẳng hiểu sao cô lại cảm thấy bất ngờ khi nhìn thấy mẹ chạy về phía bác và gọi “anh ơi” trong nỗi vui mừng khôn xiết, trong khi lúc nào cô cũng nghĩ đó là bác trai của mình. Cô nhận ra rằng, Ồ! Mẹ cũng có anh trai. Đôi lúc cô bật cười với chính mình khi nhớ lại bộ dạng của mẹ hôm đó, người mẹ già của cô nhảy phóc xuống thềm chạy băng qua sân đến chỗ bác cô và hét lên, “Anh ơi!” như một đứa trẻ. Hôm ấy mẹ hành động giống như mẹ là một cô bé con thậm chí còn nhỏ hơn cô. Hình ảnh đó của mẹ đã khắc sâu trong tâm trí cô. Điều ấy khiến cô nghĩ, kể cả mẹ cũng đã từng... Cô chẳng hiểu tại sao phải lâu đến vậy cô mới nhận ra một điều hiển nhiên đến vậy. Với cô, mẹ lúc nào cũng là mẹ. Cô chưa bao giờ nghĩ rằng mẹ cũng từng chập chững bước đầu tiên, mẹ cũng lên ba, rồi mười hai rồi hai mươi tuổi. Cô luôn cho rằng mẹ là mẹ. Mẹ sinh ra đã là mẹ. Cho đến tận khi cô chứng kiến cảnh mẹ vừa gọi “Anh ơi!” vừa chạy ào lại chỗ bác trai như thế. Cô cũng dần dần nhận thức được rằng trong sâu thẳm trái tim mẹ vẫn ấp ủ tình cảm y hệt như tình cảm cô dành cho các anh em trai mình và rằng mẹ cũng có một thời thơ ấu. Từ đấy trở đi, thỉnh thoảng cô lại nghĩ về mẹ như một em bé, một cô gái, một thiếu nữ, một tân nương, một người mẹ trẻ vừa sinh ra cô.
Cô không thể bỏ mặc mẹ để trở về thành phố sau khi thấy mẹ nằm trong nhà kho như thế. Bố cô đã đến Sokcho cùng với một số người ở Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Truyền thống Hàn Quốc, chắc phải hai ngày nữa mới về. Dù không còn đau đớn tột độ, mẹ vẫn không thể thoát được cơn đau đầu và thậm chí không thể mỉm cười. Không chỉ không thể mỉm cười mà mẹ còn không thể khóc. Mẹ thậm chí chẳng hiểu gì khi cô bảo muốn đưa mẹ đi bệnh viện. Lúc cô dìu mẹ lên nhà trên, mẹ bước rón rén, cố kìm giữ cơn đau. Phải một lúc lâu sau mẹ mới nói được. Mẹ nói mẹ đau đầu mãn tính nhưng những cơn đau dữ dội chỉ “lâu lâu mới xảy ra một lần.” Mẹ có thể đối phó được khi những khoảnh khắc ấy qua đi. Liệu các anh em cô có biết chứng đau đầu của mẹ không? Cả bố nữa?
Cô muốn nói với các anh em trai về chứng đau đầu của mẹ và đưa mẹ lên một bệnh viện lớn trên thành phố ngay khi cô trở lại thành phố. Vừa tự mình túc tắc đi lại được, mẹ liền hỏi cô, “Con không phải về à?” Dạo đó những lần về thăm nhà của cô thường ngắn ngủi hơn, cô chỉ ở lại mấy tiếng đồng hồ rồi lên thành phố. Cô nghĩ đến cuộc hẹn với bạn trai vào ngày mai nhưng cô nói với mẹ là cô sẽ ngủ lại đêm nay. Khi nghe vậy, một nụ cười tươi nở trên môi mẹ.
Cô để con bạch tuộc còn sống mua ngoài chợ hải sản ở thành phố P lại trong bếp vì cả hai mẹ con chẳng biết cách làm nó, rồi ra ngồi đối diện với mẹ qua bàn ăn giống như ngày xưa, bữa cơm chẳng có gì ngoài mấy món đạm bạc. Hai mẹ con lặng lẽ ăn cơm với kim chi trắng, đậu hầm, cá đối chiên và rong biển. Thỉnh thoảng mẹ cô lấy rong biển cuốn cơm rồi đưa cho cô như hồi cô còn nhỏ, cô đón lấy và nhai chậm rãi. Sau bữa ăn, hai mẹ con cô đi quanh nhà cho nhẹ bụng. Tuy không còn là ngôi nhà cũ, nhưng cả sân trước, sân bên cạnh và sân sau vẫn thông với nhau như ngày xưa. Vẫn có rất nhiều chum sành xếp hàng ở gò sân sau như thế. Ngày xưa những chiếc chum chứa đầy xì dầu, tương ớt, muối và tương đậu, nhưng giờ đây chúng chỉ còn là những chiếc chum không. Khi hai mẹ con đi vòng quanh ngôi nhà, có lúc mẹ dẫn trước cũng có lúc mẹ tụt lại sau, mẹ bỗng hỏi cô vì sao về nhà đột ngột vậy.
“Con đi thành phố P...”
“Thành phố P cách đây xa lắm.”
“Vâng.”
“Đến đó còn xa hơn đến Seoul đấy.”
“Vâng, đúng vậy.”
“Cái gì đã khiến con đi từ thành phố P về đây trong khi con hầu như chẳng khi nào có thời gian rảnh rỗi về thăm nhà?”
Thay vì trả lời thẳng câu hỏi, cô tha thiết nắm lấy bàn tay thô kệch của mẹ như đang cố túm vào sợi dây cứu sinh trong đêm tối. Cô không biết phải giải thích ra sao cảm xúc của chính mình. Cô kể với mẹ rằng sáng hôm ấy cô có giờ giảng tại Thư viện chữ nổi ở thành phố P.
“Thư viện chữ nổi nghĩa là gì?” mẹ cô hỏi.
“Chữ nổi là kiểu chữ để người khiếm thị đọc bằng tay ấy mẹ.”
Mẹ gật gật đầu khi nghe cô giải thích. Vừa đi quanh nhà, cô vừa kể cho mẹ nghe về chuyến đi đến thành phố P của cô. Mấy năm lại đây, người thủ thư Thư viện chữ nổi đó thường mời cô đến giảng bài nhưng chẳng hiểu sao lần nào cô cũng vướng lịch nên không thể nhận lời. Đầu xuân năm nay, ông ấy lại gọi điện cho cô. Khi đó cô vừa xuất bản tác phẩm mới nhất của mình. Ông ấy nói họ muốn xuất bản cuốn sách mới của cô bằng chữ nổi. Chữ nổi ư? Cô không biết nhiều lắm về chữ nổi. Cô chỉ biết chữ nổi là ngôn ngữ dành cho người khiếm thị, đúng như những gì cô nói với mẹ. Cô cảm thấy hết sức ấn tượng khi nghe người thủ thư nói, cứ như thể cô đang nghe về một cuốn sách cô chưa từng đọc vậy. Ông ấy nói rằng họ cần sự cho phép của cô. Nếu ông ấy không dùng từ “cho phép”, chưa biết chừng lần này cô đã không đến đó giảng bài. Từ “cho phép” ấy khiến cô mủi lòng. Những người khiếm thị muốn đọc sách của cô, họ xin cô cho phép làm lại cuốn sách của cô bằng một thứ ngôn ngữ chỉ họ mới hiểu được... Nghĩ đến đây cô thấy lòng lặng đi, liền đáp vội, “Được chứ.” Người thủ thư nói cuốn sách sẽ được hoàn thành vào tháng Mười một vì tháng này có “Ngày Chữ nổi”. Ông nói họ sẽ rất cảm kích nếu hôm đó cô có thể tới tham dự buổi lễ ký tặng sách. Cô tự hỏi sao mọi chuyện lại diễn ra như thế nhỉ, nhưng cô chẳng nói được gì hơn ngoài câu “Được chứ.” Cũng may bấy giờ mới đầu xuân nên cảm giác như tháng Mười một còn xa lơ xa lắc. Nhưng thời gian trôi đi, xuân qua, hạ tới, thu về, chẳng mấy chốc đã sang tháng Mười một. Và rồi ngày đó cũng đến.
Mọi việc trên thế gian đều có thể dự đoán được nếu ta suy nghĩ thật sâu sắc về chúng. Ngay cả những việc ta gọi là khác thường, nếu suy nghĩ thấu đáo thì chúng cũng chỉ là những việc đương nhiên xảy ra. Thường thường do ta không suy nghĩ kỹ nên mới gặp những chuyện ngoài ý muốn. Chuyến đi tới Thư viện chữ nổi và những sự kiện xảy ra ở đó đều là những việc có thể dự đoán được nếu cô bỏ thời gian quan tâm đến Thư viện chữ nổi ấy. Nhưng cô đã quá bận rộn suốt mùa xuân, mùa hạ, mùa thu. Ngay cả ngày tới Thư viện chữ nổi, cô cũng không nghĩ về những người mình sẽ gặp gỡ ở đó; cô chỉ lo trễ cuộc gặp lúc mười giờ. Cô bay chuyến tám giờ, đáp xuống sân bay thành phố P, vội vàng bắt taxi đến Thư viện chữ nổi rồi ngồi chờ trong phòng khách. Với sự giúp đỡ của một tình nguyện viên, ông giám đốc thư viện bước vào phòng khách và ngồi đối diện với cô. Ông giám đốc cảm ơn cô vì đã dành thời gian đến đây, ông tự giới thiệu và chìa tay ra. Cố che giấu sự căng thẳng, cô bắt tay ông giám đốc thư viện và vui vẻ cất tiếng chào ông. Bàn tay ông ấy thật mềm mại. Ông giám đốc thư viện trò chuyện về cuốn sách của cô cho tới tận khi diễn ra sự kiện. Cô mỉm cười gật đầu với người đàn ông khiếm thị đã đọc tác phẩm của cô, dù ông không thể nhìn thấy nụ cười và cái gật đầu của cô.
Hôm đó là Ngày Chữ nổi, ngày hội của họ. Khi cô bước vào trong hội trường, có khoảng 400 người đã ngồi ở đó, một số khác đang dò dẫm bước vào theo sự hướng dẫn của các tình nguyện viên. Có cả nam cả nữ ở mọi lứa tuổi, nhưng không có trẻ em. Buổi lễ được bắt đầu, lần lượt một vài người trong ban tổ chức bước lên sân khấu tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu và chuyển lời cảm ơn. Một số người được trao giấy chứng nhận. Khi sách của cô xuất bản bằng chữ nổi được giới thiệu, cô bước lên sân khấu để nhận một cuốn. Ông giám đốc thư viện trao quyển sách cho cô, nó dày gấp hai lần quyển sách bình thường nhưng rất nhẹ. Cô nghe thấy tiếng vỗ tay, sau đó cô cầm quyển sách trên tay đi xuống chỗ ngồi. Buổi lễ vẫn tiếp tục. Khi ban tổ chức đang trao giải thưởng cho những người đọc được nhiều sách chữ nổi, cô mở quyển sách ra xem. Bỗng nhiên cô cảm thấy choáng váng, có vô số dấu chấm nhảy múa trên trang giấy trắng. Cô có cảm giác như thể mình bị rơi vào hố đen, như thể bị lăn xuống cầu thang vì bước hụt do mải nghĩ mông lung trong khi bản thân luôn cho rằng mình đã quá quen thuộc với cái cầu thang đó. Chữ nổi dàn trải ra trên giấy trắng, mỗi chữ là một loạt cái lỗ khắc bằng kim, những con chữ cô hoàn toàn không giải mã nổi. Cô nói với mẹ rằng cô giở qua trang thứ nhất, trang thứ hai, trang thứ ba rồi gấp quyển sách lại. Thấy mẹ đang rất chăm chú lắng nghe câu chuyện của mình, cô kể tiếp. Cuối buổi lễ, cô bước lên sân khấu đứng trước mọi người để nói về tác phẩm của mình. Cô đặt quyển sách trên bục rồi nhìn xuống mọi người, lưng cô cứng đơ ra. Đứng trước hơn bốn trăm người khiếm thị, cô lúng túng không biết nhìn vào đâu.
“Vậy con đã làm thế nào?” mẹ cô hỏi.
Cô nói rằng với cô năm mươi phút đó tưởng chừng như dài vô tận. Cô thuộc típ người thích nhìn thẳng vào mắt người đối diện trong khi nói chuyện, tùy theo cảm xúc trong ánh mắt của đối phương, cô sẽ quyết định nói hết chuyện hay bỏ dở giữa chừng. Trước một vài ánh mắt nào đó, những câu chuyện cô chưa từng kể với ai lại bỗng tuôn trào. Cô băn khoăn liệu mẹ có biết tính cô như vậy. Trước bốn trăm người khiếm thị cô không biết nhìn vào mắt ai và bắt đầu câu chuyện như thế nào. Trong số họ, có những đôi mắt đã nhắm lại, có những đôi mắt nửa nhắm nửa mở, có những đôi mắt ẩn sau cặp kính râm, có đôi mắt lại trừng trừng như thể nhìn xuyên thấu cả con người lẫn sự căng thẳng của cô. Trước những đôi mắt đang hướng lên sân khấu nhưng không thể nhìn thấy gì, cô trở nên im lặng. Cô phân vân liệu có ý nghĩa gì không khi nói về cuốn sách của mình trước những đôi mắt khiếm khuyết ấy. Nhưng sẽ không ổn nếu cô nói chuyện gì đó khác, kiểu như những giai thoại về cuộc sống. Cô nghĩ rằng mình không nên kể giai thoại cho họ nghe, mà họ nên kể cho cô những câu chuyện cuộc đời họ mới phải. Cảm thấy bế tắc, cô cầm micro lên hỏi mọi người, “Tôi nên kể chuyện gì với các bạn bây giờ?” Cả hội trường cười ầm lên. Có phải họ bật cười bởi vì họ nghĩ ý cô là cô có thể kể bất cứ chuyện gì? Hay họ cười để giúp cô rũ bỏ căng thẳng?
“Không phải cô tới để nói về tác phẩm của mình sao?” một người đàn ông trạc bốn mươi đề nghị. Đôi mắt của ông ta nhắm tịt lại dù đang chiếu thẳng vào cô. Vừa nhìn vào đôi mắt nhắm tịt của ông ta, cô bắt đầu kể về tác phẩm được chuyển sang chữ nổi của mình. Cô kể về động lực thôi thúc cô viết cuốn sách đó, những cảm xúc cô trải qua trong suốt thời gian sáng tác và những hy vọng cô dành cho cuốn sách sau khi nó hoàn thành. Cô rất ngạc nhiên. Họ say sưa lắng nghe lời cô kể hơn bất cứ ai cô đã từng gặp. Điệu bộ của họ cho cô thấy họ chăm chú lắng nghe câu chuyện của cô từng li từng tí. Có người gật gật đầu, có người duỗi chân ra trước, có người vươn lên dựa mình vào người ngồi phía trước. Tuy cô không thể giải mã được lấy một chữ trong ngôn ngữ của họ, nhưng họ đã đọc cuốn sách do cô viết, đưa ra những câu hỏi và chia sẻ cảm tưởng của bản thân. Cô nói với mẹ rằng hình như chưa bao giờ cô gặp ai biểu lộ tình cảm tốt đẹp đối với cuốn sách của cô đến như vậy. Mẹ cô nãy giờ chỉ im lặng nghe cô kể chuyện, cuối cùng mẹ lên tiếng, “Dù sao họ đã đọc sách của con.” Cả hai mẹ con cùng im lặng. Một lúc sau mẹ bảo cô tiếp tục đi. Cô kể tiếp. Khi cô ngừng lời, một người trong số họ giơ tay lên nói muốn hỏi cô một điều. Cô bảo ông ấy cứ hỏi. Ông ấy nói rằng dù khiếm thị nhưng sở thích của ông ấy là đi du lịch. Cô rất choáng váng. Một người mù có thể đi du lịch ở đâu? Ông ấy nói rằng cách đây khá lâu ông đã đọc một tác phẩm do chính cô viết lấy bối cảnh là Peru. Nhân vật trong cuốn truyện đó đã đến một nơi gọi là Machu Picchu, ở đó anh ta được chứng kiến cảnh đoàn tàu hỏa đi giật lùi. Sau khi đọc câu chuyện đó, ông mơ ước được đến Peru một lần để đi con tàu kỳ lạ ấy. Ông ấy hỏi cô đã trực tiếp đi trên con tàu đó chưa. Đó là tác phẩm cô đã viết từ mười năm trước. Cô - vốn có trí nhớ tồi đến mức thường xuyên mở cửa tủ lạnh rồi quên khuấy mất mình cần lấy thứ gì, cứ đứng như thế cho luồng khí mát trong tủ lạnh phả lên người cho đến khi cô đành từ bỏ và đóng cửa tủ lại - lúc này lại bắt đầu hào hứng kể về Peru, nơi cô đã đến trước khi viết cuốn sách ấy. Lima thủ đô của Peru, Cusco thành phố nổi tiếng từng được xem là rốn của vũ trụ. Trong buổi sáng đầu tiên ở Peru, cô tới ga San Pedro để đón tàu đi Machu Picchu, nhưng chuyến tàu đó cứ tiến lên rồi lại lùi lại cả chục lần rồi mới khởi hành được. Cô nói với mẹ rằng những địa danh và tên các dãy núi cô đã quên từ lâu bỗng nhiên lại tuôn ra. Cảm nhận được tình bằng hữu từ những đôi mắt chưa bao giờ nhìn thấy đó, những đôi mắt trông như có thể hiểu và thông cảm được với mọi thiếu sót của cô, cô tâm sự một điều cô chưa bao giờ chia sẻ về cuốn sách đó.
“Đó là cái gì?” mẹ cô hỏi.
“Con nói nếu cho con viết lại tác phẩm đó, có lẽ con sẽ không viết như thế.”
“Nói ra điều đó quan trọng lắm sao con?” mẹ cô hỏi lại.
“Vâng, vì như thế là con đang phủ nhận những thứ hiện có, mẹ ạ!” Cảm thấy cô đơn, cô nắm lấy bàn tay mẹ.
Mẹ nhìn cô chằm chằm trong bóng tối và nói, “Sao con phải giấu giếm những lời ấy? Con phải sống cho thật thoải mái, nói ra bất cứ điều gì mình cảm nhận chứ.” Rồi mẹ rút tay khỏi tay cô và xoa xoa lưng cô. Khi cô còn bé mẹ thường rửa mặt cho cô y như thế, với đôi bàn tay thô kệch này.
Mẹ khen, “Câu chuyện của con rất hay.”
“Con ư?”
Mẹ gật đầu và xác nhận, “Phải, chuyện con kể thú vị lắm.”
“Mẹ nghĩ chuyện đó hay à mẹ?”
“Ừ, mẹ thích lắm.”